Lịch sử Cộng_hòa_Nhân_dân_Bulgaria

Những năm đầu và thời đại Chervenkov

Georgi Dimitrov.

Vương quốc Bulgaria chuyển đổi lập trường và tuyên chiến với Đức Quốc xã vào ngày 7 tháng 9 năm 1944, một cuộc đảo chính do Hồng quân Liên Xô ủng hộ diễn ra vào ngày 9 tháng 9, lập nên một chính phủ mới do Mặt trận Tổ quốc lãnh đạo, thế chế này do Đảng Cộng sản Bulgaria chi phối.

Hai năm sau đó, phe đối lập chống Cộng bị trấn áp mạnh tay, điều này càng gia tăng khi Hoa KỳAnh Quốc nhìn chung không quan tâm đến phe đối lập tại Bulgaria. Tiến độ trấn áp càng được đẩy mạnh hơn nữa vào tháng 11 năm 1945, khi nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản là Georgi Dimitrov trở về Bulgaria sau 22 năm sống lưu vong. Ông đưa ra một bài phát biểu hùng hổ, thể hiện rằng không có ý định cùng làm việc với phe đối lập. Bầu cử diễn ra vài tuần sau đó, với kết quả là Mặt trận Tổ quốc chiến thắng với đa số áp đảo.

Đến tháng 9 năm 1946, một cuộc trưng cầu dân ý được tiến hành về vấn đề nên duy trì chế độ quân chủ hay đưa Bulgaria thành một nước cộng hòa, kết quả là 95,6% số phiếu ủng hộ thành lập nền cộng hòa. Gần như ngay lập tức sau đó, Bulgaria được tuyên bố là một cộng hòa nhân dân. Sa hoàng Simeon II nhỏ tuổi cùng mẫu hậu và hoàng tỷ được yêu cầu rời khỏi đất nước. Vasil Kolarov, nhân vật số ba trong đảng Cộng sản, trở thành quyền nguyên thủ quốc gia. Sự kiện này khởi đầu cho giai đoạn Đảng Cộng sản công khai nắm quyền tại Bulgaria.

Trong những năm sau, những người Cộng sản củng cố quyền lực, họ chiếm đa số trong cuộc bầu cử quốc hội lập hiến vào tháng 10 năm 1946. Một tháng sau, Dimitrov trở thành thủ tướng. Với sự hỗ trợ của các nhà luật học Liên Xô, Quốc hội lập hiến thông qua "Hiến pháp Dimitrov" vào tháng 12 năm 1947 — một bản sao chép lại của Hiến pháp Liên Xô 1936. Năm 1948, các đảng đối lập còn lại bị giải tán; những người Xã hội dân chủ bị buộc phải hợp nhất với Đảng Cộng sản, trong khi Liên minh Ruộng đất chuyển đổi thành một đối tác trung thành của những người cộng sản.

Trong những năm 1948-49, các tổ chức tôn giáo của Chính Thống giáo Đông phương, Hồi giáo, Tin LànhCông giáo La Mã bị kiềm chế hoặc cấm đoán. Giáo hội Chính thống giáo Bulgaria vẫn tiếp tục hoạt động song nằm dưới sự hạn chế và sau đó bị các hoạt động của Đảng Cộng sản thâm nhập.[4]

Dimitrov qua đời năm 1949, trong một thời gian sau, Bulgaria thi hành chế độ lãnh đạo tập thể khi Vulko Chervenkov trở thành lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Vasil Kolarov trở thành thủ tướng. Việc này kết thúc một năm sau đó, khi Kolarov qua đời và Chervenkov một lần nữa kết hợp chức vụ lãnh đạo đảng và thủ tướng. Chervenkov khởi đầu một quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng và mạnh mẽ. Nông nghiệp được tập thể hóa và các vụ phản kháng của nông dân bị quân đội trấn áp. Các trại lao động được lập ra, chúng là nơi ở của khoảng 100 nghìn người trong đỉnh cao của cuộc tập thể hóa này. Trong thời kỳ này, hàng nghìn người bất đồng quan điểm đã bị tống giam và nhiều người qua đời trong các trại lao động.[5][6][7]

Tuy nhiên, nền tảng ủng hộ dành cho Chervenkov là nhỏ, thậm chí ngay cả trong nội bộ đảng, ông ta không thể tiếp tục nắm giữ quyền lực khi người bảo trợ là Stalin không còn. Tháng 3 năm 1954, một năm sau khi Stalin qua đời, Chervenkov từ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Bulgaria với sự chấp thuận từ ban lãnh đạo mới ở Moskva, thay thế ông là Todor Zhivkov. Chervenkov vẫn tiếp tục giữ chức thủ tướng cho đến tháng 4 năm 1956, khi đó ông được thay thế bởi Anton Yugov.

Thời đại Zhivkov

"Tình hữu nghị giữa nhân dân Liên Xô và Bulgaria — vĩnh viễn bất diệt", một tem Liên Xô phát hành vào năm 1969 nhằm kỷ niệm 25 năm cuộc Khởi nghĩa Xã hội chủ nghĩa tại Bulgaria.Trụ sở của Đảng Cộng sản Bulgaria vào năm 1984.

Zhivkov lãnh đạo Bulgaria trong 33 năm sau đó, ông hoàn toàn trung thành với Liên Xô song theo đuổi một chính sách ôn hòa hơn tại nước nhà. Bulgaria khôi phục quan hệ với Nam TưHy Lạp, chính thức lên án việc xét xử và hành quyết Traycho Kostov và những người "Titoist" khác (trừ Nikola Petkov và các phạm nhân phi cộng sản khác bị xét xử vào năm 1947). Tự do ngôn luận được khôi phục trên một mức độ hạn chế, chính sách cấm đoán Giáo hội cũng kết thúc.

Các biến động tại Ba LanHungary năm 1956 không lan tới Bulgaria, song Đảng Cộng sản thắt chặt các giới hạn và hạn chế về tự do tư tưởng và văn hóa để ngăn ngừa bất kỳ sự nổi dậy nào. Trong thập niên 1960, một số cải cách kinh tế được tiến hành, cho phép mua bán tự do số hàng sản xuất vượt trên hạn định mức. Quốc gia trở thành điểm đến du lịch có tiếng đối với người dân khối phía Đông. Bulgaria cũng có một nền tảng sản xuất lớn các mặt hàng như thuốc lá hay sôcôla, điều mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác khó đạt được.

Yugov nghỉ hưu vào năm 1962, và Zhivkov sau đó trở thành Thủ tướng cũng như Bí thư Đảng. Ông vẫn nắm giữ quyền lực khi quyền lãnh đạo Liên Xô chuyển từ Khrushchev sang Brezhnev vào năm 1964, và đến năm 1968 lại tiếp tục chứng minh lòng trung thành của mình với Liên Xô bằng việc chính thức là một phần của Khối Hiệp ước Warsaw tấn công Tiệp Khắc năm 1968; ông phái một lượng quân hạn chế sang Tiệp Khắc song lực lượng này không thực sự tham gia vào việc dập tắt Mùa xuân Praha. Vào thời điểm đó, Bulgaria thường được xem là đồng minh Đông Âu trung thành nhất của Liên Xô.

Năm 1971, Cộng hòa Nhân dân Bulgaria thông qua bản hiến pháp mới, Zhivkov trở thành nguyên thủ quốc gia (Chủ tịch Hội đồng quốc gia) và để Stanko Todorov làm thủ tướng.

Sự suy yếu và sụp đổ

Mặc dù Zhivkov chưa từng theo khuôn mẫu Stalinist, song đến năm 1981, khi ông qua tuổi 70, chế độ của ông tuy độc đoán song cũng có sự mở rộng tự do và phát triển xã hội và văn hóa, quá trình này do con gái của ông là Lyudmila Zhivkova lãnh đạo, bà có quan điểm thân phương Tây.

Trước khi sụp đổ, tại Cộng hòa Nhân dân Bulgaria diễn ra một sự kiện đáng chú ý là chiến dịch đồng hóa chống lại người thiểu số Thổ Nhĩ Kỳ, họ bị cấm nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ[8] và buộc phải dùng tên tiếng Bulgaria vào mùa đông năm 1984. Vấn đề khiến quan hệ kinh tế giữa Bulgaria và phương Tây trở nên căng thẳng. Việc trục xuất 300.000 người Thổ Nhĩ Kỳ khiến sản lượng nông nghiệp sụt giảm đáng kể ở các khu vực phía nam do thiếu lực lượng lao động.[9]

Tác động từ chương tình cải cách của Mikhail Gorbachev tại Liên Xô tác động đến Bulgaria vào cuối thập niên 1980, những người Cộng sản, giống như lãnh đạo của họ, trở nên nhu nhược trước những đòi hỏi phải thay đổi. Từ một cuộc biểu tình về môi trường tại thủ đô Sofia vào tháng 10 năm 1989, phong trào phản đối khuếch trương thành một tổng chiến dịch về cải cách chính trị. Các thành phần ôn hòa hơn trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cọng sản Bulgaria phản ứng mau lẹ bằng việc yêu cầu Zhivkov từ chức và đưa Ngoại trưởng Petar Mladenov lên thay thế vào ngày 10 tháng 11 năm 1989.

Tuy nhiên, động thái này chỉ có tác động tạm thời. Mladenov hứa hẹn mở cửa chính trị, thậm chí còn đi xa hơn khi nói là ông ủng hộ bầu cử tự do. Tuy nhiên, các cuộc biểu tình trên khắp đất nước lại đưa tình hình trở về trạng thái lúc trước. Ngày 11 tháng 12, Mladenov lên sóng truyền hình quốc gia để tuyên bố rằng Đảng Cộng sản từ bỏ quyền lực. Ngày 15 tháng 1 năm 1990, Quốc hội chính thức bãi bỏ "vai trò lãnh đạo" của Đảng Cộng sản Bulgaria. Vào tháng 6 năm 1990, cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên kể từ năm 1939 được tổ chức tại Bulgaria, mở ra con đường đa đảng cho Bulgaria. Đến giữa tháng 11 năm 1990, Quốc hội bỏ phiếu đổi tên nước thành Cộng hòa Bulgaria và loại bỏ biểu tượng của nhà nước cộng sản chủ nghĩa ra khỏi quốc kỳ.[10]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cộng_hòa_Nhân_dân_Bulgaria http://www.country-data.com/cgi-bin/query/r-1832.h... http://books.google.com/books?id=bSAChoqpnHUC&pg=P... http://www.novinite.com/view_news.php?id=109667. http://www.ustrcr.cz/data/pdf/konference/zlociny-k... http://mpra.ub.uni-muenchen.de/7789/1/MPRA_paper_7... http://www.umsl.edu/services/govdocs/wofact90/worl... http://www.nationalanthems.info/bg-50.htm http://www.nationalanthems.info/bg-64.htm http://archive.is/20120525030623/findarticles.com/... http://www.osaarchivum.org/files/holdings/300/8/3/...